Thứ năm, Tháng mười hai 5, 2024
spot_img
Trang chủLuật sư Tư vấnLuật sư tư vấn Thừa KếCó được thừa kế khi vợ hoặc chồng chết mà không đăng...

Có được thừa kế khi vợ hoặc chồng chết mà không đăng ký kết hôn?

Công ty Luật CMA - hotline: 0986057998 - 0944296698

Nam nữ sống chung với nhau như vợ, chồng mà không đăng ký kết hôn nếu một trong hai người chết thì người còn lại có được hưởng thừa kế hay không?

Về khái niệm “chung sống với nhau như vợ chồng”: Căn cứ khoản 7 điều 3 Luật hôn nhân và gia đình năm 2014, cụ thể: “7. Chung sống như vợ chồng là việc nam, nữ tổ chức cuộc sống chung và coi nhau là vợ chồng.” Theo quy định này, thì được coi là Nam, Nữ chung sống với nhau như vợ chồng khi (1) Tổ chức cuộc sống chung: ăn, ở cùng nhau, sinh sống cùng một nhà; (2) Coi nhau như vợ chồng: Cách gọi xưng hô, chăm sóc, thể hiện ra bên ngoài với mọi người về tình cảm, trách nhiệm lẫn nhau về mọi mặt trong đời sống. Việc coi nhau như vợ chồng bên cạnh trình bày của một trong hai bên, còn cần phải được khẳng định thông qua những nhân chứng khách quan khác biết về đời sống chung của họ như người thân thích của họ, hàng xóm liền kề, tổ dân phố, các tổ chức đoàn thể ở địa phương..

Thừa kế là việc phân chia di sản của người chết để lại cho những người còn sống trên cơ sở (1) mong muốn, nguyện vọng của người chết để lại (di chúc hợp pháp) hoặc (2) quan hệ hôn nhân, huyết thống, nuôi dưỡng với cách thức phân chia dựa theo quy định của pháp luật.

Quan hệ thừa kế giữa vợ và chồng là dựa trên cơ sở hôn nhân hợp pháp, được pháp luật thừa nhận. Nguyên tắc chung, mọi trường hợp kết hôn (hình thành quan hệ hôn nhân) phải được đăng ký tại cơ quan nhà nước có thẩm quyền. Tuy nhiên, do yếu tố lịch sử của đất nước trong thời kỳ chiến tranh hoặc mới thành lập việc quản lý, kê khai, đăng ký kết hôn còn nhiều hạn chế để lại, có những hôn nhân đã tồn tại trừ trước ngày 03/01/1987 (ngày luật hôn nhân và gia đình năm 1986 có hiệu lực pháp luật) mà chưa đăng ký kết hôn thì pháp luật cũng có những quy định để công nhận những quan hệ hôn nhân này.

Trường hợp thứ nhất: Nam nữ sống chung với nhau như vợ chồng mà không đăng ký kết hôn trước ngày 03 tháng 01 năm 1987 thì được pháp luật công nhận quan hệ là vợ chồng căn cứ theo quy định tại khoản 2 Điều 44 nghị định số 123/2015/NĐ-CP ngày 15 tháng 11 năm 2015.

2. Đối với trường hợp nam, nữ chung sống với nhau như vợ chồng trước ngày 03 tháng 01 năm 1987 mà chưa đăng ký kết hôn thì được khuyến khích và tạo điều kiện để đăng ký kết hôn. Quan hệ hôn nhân được công nhận kể từ ngày các bên xác lập quan hệ chung sống với nhau như vợ chồng. Thẩm quyền, thủ tục đăng ký kết hôn được thực hiện theo quy định tại Điều 17 và Điều 18 của Luật Hộ tịch.”

Trong trường hợp này, vợ chồng có quyền hưởng thừa kế với tài sản mà người kia để lại khi chết theo quy định của BLDS năm 2015. Ngoài ra, người vợ, chồng được hưởng phần di sản bằng hai phần ba suất của một người thừa kế theo pháp luật, trong trường hợp họ không được chồng, vợ lập di chúc cho hưởng di sản hoặc chỉ cho hưởng phần di sản ít hơn hai phần ba suất đó, trừ khi vợ, chồng từ chối nhận di sản theo quy định tại Điều 642 hoặc là những người không có quyền hưởng di sản theo quy định tại khoản 1 Điều 643 của Bộ luật dân sự.

Trường hợp thứ hai: Nam nữ sống chung với nhau như vợ chồng mà không đăng ký kết hôn từ ngày 03 tháng 01 năm 1987 thì sẽ không được công nhận quan hệ vợ chồng theo hướng dẫn tại điểm b,c Điều 3 nghị quyết số 35/2000/QH10 ngày 09 tháng 6 năm 2000.

“b) Nam và nữ chung sống với nhau như vợ chồng từ ngày 03 tháng 01 năm 1987 đến ngày 01 tháng 01 năm 2001, mà có đủ điều kiện kết hôn theo quy định của Luật này thì có nghĩa vụ đăng ký kết hôn trong thời hạn hai năm, kể từ ngày Luật này có hiệu lực cho đến ngày 01 tháng 01 năm 2003; trong thời hạn này mà họ không đăng ký kết hôn, nhưng có yêu cầu ly hôn thì Toà án áp dụng các quy định về ly hôn của Luật hôn nhân và gia đình năm 2000 để giải quyết.

Từ sau ngày 01 tháng 01 năm 2003 mà họ không đăng ký kết hôn thì pháp luật không công nhận họ là vợ chồng;

c) Kể từ ngày 01 tháng 01 năm 2001 trở đi, trừ trường hợp quy định tại điểm a và điểm b khoản 3 của Nghị quyết này, nam và nữ chung sống với nhau như vợ chồng mà không đăng ký kết hôn, đều không được pháp luật công nhận là vợ chồng; nếu có yêu cầu ly hôn thì Toà án thụ lý và tuyên bố không công nhận quan hệ vợ chồng; nếu có yêu cầu về con và tài sản thì Toà án áp dụng khoản 2 và khoản 3 Điều 17 của Luật hôn nhân và gia đìnhnăm 2000 để giải quyết.”

Trong trường hợp, nam nữ sống chung với nhau như vợ chồng mà không đăng ký kết hôn theo quy định của luật HN&GĐ với cơ quan đăng ký hộ tịch thì pháp luật không công nhận quan hệ vợ, chồng của họ dẫn đến không làm phát sinh, quyền nghĩa vụ giữa vợ chồng, trong đó bao gồm quyền thừa kế khi một bên vợ, chồng chết. Người vợ, chồng chỉ có quyền được hưởng thừa kế do người chết để lại theo di chúc.

BÀI VIẾT LIÊN QUAN
- Advertisment -spot_img

Bài viết được quan tâm