Thứ bảy, Tháng mười một 23, 2024
spot_img

Chia tài sản vợ chồng ly hôn

Khi chấm dứt quan hệ hôn nhân (ly hôn) bên cạnh vấn đề tranh chấp quyền nuôi con khi ly hôn, tranh chấp về cấp dưỡng khi ly hôn thì tranh chấp chia tài sản chung của vợ chồng khi ly hôn hoặc xác định đâu là tài sản chung, đâu là tài sản riêng của vợ, chồng thường là một trong các vấn đề gây tranh chấp nhiều nhất và kéo dài.

Trong không ít trường hợp, tài sản chung của vợ chồng còn được hình thành hoặc hình thành chính từ nguồn tài sản của người khác, ví dụ: Anh/Chị ở nước ngoài không đứng tên được nhờ em gái mua hộ nhà, Sổ đỏ đứng tên chung vợ chồng của người em gái hoặc ví dụ: Bố mẹ chồng chung tiền cùng con trai mua một căn nhà để cùng ở chung, nhưng sổ đỏ đứng tên vợ chồng người con trai.

Hiện nay, Luật hôn nhân và gia đình năm 2014 đã có những quy định rất cụ thể, chi tiết về việc xác định tài sản chung, tài sản riêng của vợ chồng làm căn cứ để giải quyết tranh chấp tài sản, chia tài sản khi ly hôn.

Trên cơ sở các quy định của Luật hôn nhân và gia đình năm 2014, bài viết nêu, phân tích đánh giá cụ thể để người đọc có cái nhìn tổng quát, dễ hiểu về việc xác định tài sản chung của vợ chồng trong thời kỳ hôn nhân và nguyên tắc chia tài sản khi ly hôn.

1. Xác định tài sản chung, tài sản riêng của vợ chồng trên cơ sở có thỏa thuận:

Thỏa thuận về chế độ tài sản chung, tài sản riêng của vợ chồng được cụ thể hóa tại luật hôn nhân và gia đình năm 2014. Đây là một trong các quy định mới của Luật đáp ứng yêu cầu thực tế của đời sống xã hội. Đồng thời, thỏa thuận này là cơ sở pháp lý quan trọng để giải quyết tranh chấp chia tài sản khi ly hôn. Hình thức thỏa thuận này chưa thông dụng tại Việt Nam, tuy nhiên, rất thông dụng tại các quốc gia phát triển.

Việc thỏa thuận xác lập chế độ tài sản của vợ chồng phải tuân thủ quy định của pháp luật về hình thức cụ thể là phải được lập thành văn bản có công chứng, chứng thực. Đồng thời, thỏa thuận này phải được lập trước thời điểm đăng ký kết hôn. Trong thời kỳ hôn nhân, vợ chồng có quyền thỏa thuận sửa đổi, bổ sung thỏa thuận này.

Khoản 1 điều 15 Nghị định số 126/2014/NĐ-CP quy định:

Điều 15. Xác định tài sản của vợ chồng theo thỏa thuậnTrường hợp lựa chọn áp dụng chế độ tài sản của vợ chồng theo thỏa thuận thì vợ chồng có thể thỏa thuận về xác định tài sản theo một trong các nội dung sau đây:

a) Tài sản giữa vợ và chồng bao gồm tài sản chung và tài sản riêng của vợ, chồng;

b) Giữa vợ và chồng không có tài sản riêng của vợ, chồng mà tất cả tài sản do vợ, chồng có được trước khi kết hôn hoặc trong thời kỳ hôn nhân đều thuộc tài sản chung;

c) Giữa vợ và chồng không có tài sản chung mà tất cả tài sản do vợ, chồng có được trước khi kết hôn và trong thời kỳ hôn nhân đều thuộc sở hữu riêng của người có được tài sản đó;

d) Xác định theo thỏa thuận khác của vợ chồng.

2. Xác định tài sản chung, tài sản riêng của vợ chồng theo pháp luật.

Trong trường hợp, vợ, chồng không có thỏa thuận về chế độ tài sản trong thời kỳ hôn nhân hoặc trong trường hợp thỏa thuận về chế độ tài sản chung của vợ, chồng trong thời kỳ hôn nhân bị tòa án tuyên vô hiệu. Thì việc xác định tài sản chung, tài sản riêng của vợ chồng trong thời kỳ hôn nhân khi xử lý tranh chấp tài sản khi ly hôn tuân thủ theo các quy định của pháp luật. Tại điều 33 Luật Hôn nhân và gia đình năm 2014 quy định:

Điều 33 Luật hôn nhân và gia đình quy định:

“Điều 33. Tài sản chung của vợ chồng

Tài sản chung của vợ chồng gồm tài sản do vợ, chồng tạo ra, thu nhập do lao động, hoạt động sản xuất, kinh doanh, hoa lợi, lợi tức phát sinh từ tài sản riêng và thu nhập hợp pháp khác trong thời kỳ hôn nhân, trừ trường hợp được quy định tại khoản 1 Điều 40 của Luật này; tài sản mà vợ chồng được thừa kế chung hoặc được tặng cho chung và tài sản khác mà vợ chồng thỏa thuận là tài sản chung.

Quyền sử dụng đất mà vợ, chồng có được sau khi kết hôn là tài sản chung của vợ chồng, trừ trường hợp vợ hoặc chồng được thừa kế riêng, được tặng cho riêng hoặc có được thông qua giao dịch bằng tài sản riêng.

Tài sản chung của vợ chồng thuộc sở hữu chung hợp nhất, được dùng để bảo đảm nhu cầu của gia đình, thực hiện nghĩa vụ chung của vợ chồng.

Trong trường hợp không có căn cứ để chứng minh tài sản mà vợ, chồng đang có tranh chấp là tài sản riêng của mỗi bên thì tài sản đó được coi là tài sản chung.”

3. Chia tài sản khi ly hôn

Tranh chấp chia tài sản khi ly hôn là một trong các tranh chấp dân sự. Do đó, tuân thủ theo các nguyên tắc chung của Bộ luật dân sự. Một trong các nguyên tắc cơ bản đó là tôn trọng quyền tự định đoạt của các bên trong quá trình giải quyết tranh chấp.

Trong trường hợp vợ, chồng có thể tự thỏa thuận giải quyết tranh chấp chia tài sản khi ly hôn, tại bất kỳ giai đoạn nào của việc giải quyết tranh chấp thì tòa án sẽ căn cứ theo thỏa thuận này để quyết định trừ trường hợp thỏa thuận này nhằm trốn tránh nghĩa vụ với bên thứ ba.

Trong trường hợp vợ chồng có thỏa thuận về chế độ tài sản trong thời kỳ hôn nhân thì việc chia tài sản chung được căn cứ theo nội dung thỏa thuận đó. Trường hợp, vợ chồng không có thỏa thuận hoặc thỏa thuận bị tòa án tuyên bố vô hiệu căn cứ khoản 4 điều 7 Thông tư liên tịch số 01/2016/TTLT-TANDTC-VKSNDTC-BTP, thì tài sản chung của vợ chồng được chia cụ thể như sau:

Về nguyên tắc tài sản được chia đôi, có tính tới các yếu tố như sau:

  • “Hoàn cảnh của gia đình và của vợ, chồng”là tình trạng về năng lực pháp luật, năng lực hành vi, sức khỏe, tài sản, khả năng lao động tạo ra thu nhập sau khi ly hôn của vợ, chồng cũng như của các thành viên khác trong gia đình mà vợ chồng có quyền, nghĩa vụ về nhân thân và tài sản theo quy định của Luật hôn nhân và gia đình. Bên gặp khó khăn hơn sau khi ly hôn được chia phần tài sản nhiều hơn so với bên kia hoặc được ưu tiên nhận loại tài sản để bảo đảm duy trì, ổn định cuộc sống của họ nhưng phải phù hợp với hoàn cảnh thực tế của gia đình và của vợ, chồng.
  • “Công sức đóng góp của vợ, chồng vào việc tạo lập, duy trì và phát triển khối tài sản chung”là sự đóng góp về tài sản riêng, thu nhập, công việc gia đình và lao động của vợ, chồng trong việc tạo lập, duy trì và phát triển khối tài sản chung. Người vợ hoặc chồng ở nhà chăm sóc con, gia đình mà không đi làm được tính là lao động có thu nhập tương đương với thu nhập của chồng hoặc vợ đi làm. Bên có công sức đóng góp nhiều hơn sẽ được chia nhiều hơn.
  • “Bảo vệ lợi ích chính đáng của mỗi bên trong sản xuất, kinh doanh và nghề nghiệp để các bên có điều kiện tiếp tục lao động tạo thu nhập”là việc chia tài sản chung của vợ chồng phải bảo đảm cho vợ, chồng đang hoạt động nghề nghiệp được tiếp tục hành nghề; cho vợ, chồng đang hoạt động sản xuất, kinh doanh được tiếp tục được sản xuất, kinh doanh để tạo thu nhập và phải thanh toán cho bên kia phần giá trị tài sản chênh lệch. Việc bảo vệ lợi ích chính đáng của mỗi bên trong sản xuất, kinh doanh và hoạt động nghề nghiệp không được ảnh hưởng đến điều kiện sống tối thiểu của vợ, chồng và con chưa thành niên, con đã thành niên nhưng mất năng lực hành vi dân sự.

Ví dụ: Vợ chồng có tài sản chung là một chiếc ô tô người chồng đang chạy xe taxi trị giá 400 triệu đồng và một cửa hàng tạp hóa người vợ đang kinh doanh trị giá 200 triệu đồng. Khi giải quyết ly hôn và chia tài sản chung, Tòa án phải xem xét giao cửa hàng tạp hóa cho người vợ, giao xe ô tô cho người chồng để họ tiếp tục kinh doanh, tạo thu nhập. Người chồng nhận được phần giá trị tài sản lớn hơn phải thanh toán cho người vợ phần giá trị là 100 triệu đồng.

  • “Lỗi của mỗi bên trong vi phạm quyền, nghĩa vụ của vợ chồng”là lỗi của vợ hoặc chồng vi phạm quyền, nghĩa vụ về nhân thân, tài sản của vợ chồng dẫn đến ly hôn.

Ví dụ: Trường hợp người chồng có hành vi bạo lực gia đình, không chung thủy hoặc phá tán tài sản thì khi giải quyết ly hôn Tòa án phải xem xét yếu tố lỗi của người chồng khi chia tài sản chung của vợ chồng để đảm bảo quyền, lợi ích hợp pháp của vợ và con chưa thành niên.

BÀI VIẾT LIÊN QUAN
- Advertisment -spot_img

Bài viết được quan tâm