Thứ Bảy, Tháng Bảy 27, 2024
spot_img
Trang chủDịch Vụ Sổ ĐỏCấp sổ đỏ lần đầuSổ mục kê có phải là giấy tờ căn cứ cấp sổ...

Sổ mục kê có phải là giấy tờ căn cứ cấp sổ đỏ không

Sổ mục kê là gì? Có phải giấy tờ về quyền sử dụng đất không?

Sổ mục kê là sổ quản lý nhà nước về việc sử dụng đất, một trong những loại giấy tờ pháp lý quan trọng trong việc quản lý đất đai của Nhà nước, được sử dụng khá phổ biến ở thời kỳ trước. Sổ mục kê được xem là một trong những cơ sở để Nhà nước xem xét cấp Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất cho người đang sử dụng đất. Vậy sổ mục kê là gì và sổ mục kê có giá trị pháp lý như thế nào?.

  1. Căn cứ pháp lý
  • Luật đất đai 2013
  • Nghị định số 43/2014/NĐ-CP
  • Công vă nsoso 1568/BTNMT-ĐKTKĐĐ
  1. Sổ mục kê là gì?

Tại điều 20 thông tư 25/2014/TT-BTNMT quy định:

“Sổ mục kê đất đai được lập để liệt kê các thửa đất và đối tượng chiếm đất không tạo thành thửa đất theo kết quả đo vẽ lập, chỉnh lý bản đồ địa chính, trích đo địa chính thửa đất trong phạm vi đơn vị hành chính cấp xã “

Trước ngày 18/12/1980, các địa phương trong cả nước đã có sổ mục kê để ghi thông tin thửa đất nhưng không thống nhất. Vì lẽ đó, ngày 05/11/1981, Tổng cục Quản lý ruộng đất ban hành Quyết định 56/ĐKTK quy định thủ tục đăng ký thống kê ruộng đất trong cả nước và từ đó thống nhất sử dụng mẫu sổ mục kê.

Sổ mục kê đất đai gồm các nội dung sau:

– Số thứ tự tờ bản đồ địa chính, mảnh trích đo địa chính.

– Số thứ tự thửa đất, đối tượng chiếm đất không tạo thành thửa đất.

– Tên người sử dụng, quản lý đất.

– Mã đối tượng sử dụng, đối tượng quản lý đất; diện tích.

– Loại đất (gồm loại đất theo hiện trạng, loại đất theo giấy tờ pháp lý về quyền sử dụng đất).

Khác với trước đây, sổ mục kê hiện nay được lập dưới dạng số, lưu giữ trong cơ sở dữ liệu đất đai và có in ra để phục vụ việc khai thác thông tin đất đai.

  1. Sổ mục kê có phải giấy tờ căn cứ cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất không?

Với các sổ mục kê lập trước ngày 18/12/1980: Điều 100 Luật đất đai năm 2013 và điều 18 Nghị định 43/2014 NĐ-CP công nhận: Sổ mục kê được lập trước ngày 18/12/1980 là một trong những loại giấy tờ là cơ sở để được cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất và là căn cứ xác định người sử dụng đất không phải nộp tiền sử dụng đất.

Đồng thời, trường hợp hộ gia đình, cá nhân đang sử dụng đất có sổ mục kê được lập trước ngày 18/12/1980 mà ghi tên người khác, kèm theo giấy tờ về việc chuyển quyền sử dụng đất có chữ ký của các bên có liên quan lập trước ngày 01/7/2014, chưa thực hiện thủ tục chuyển quyền sử dụng đất theo quy và đất không có tranh chấp thì được Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất và không phải nộp tiền sử dụng đất.

Với các loại Sổ mục kê lập sau 18/12/1980, là sổ quản lý đất đai do UBND xã/phường lập theo các văn bản gồm: Quyết định số 56-ĐKTK ngày 5-11-1981 của Tổng cục Quản lý ruộng đất ban hành bản quy định về thủ tục đăng ký thống kê ruộng đất trong cả nước; Quyết định số 499/QĐ-ĐC ngày 27-7-1995 của Tổng cục Địa chính (nay là Bộ Tài nguyên và Môi trường) ban hành quy định mẫu sổ địa chính, sổ mục kê đất, sổ cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất và sổ theo dõi biến động đất đai; Thông tư số 1990/2001/TT-TCĐC ngày 30-11-2001 của Tổng cục Địa chính hướng dẫn đăng ký đất đai, lập hồ sơ địa chính và cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất.

Sổ mục kê đất được lập để phục vụ cho Nhà nước nắm đầy đủ ruộng đất và thực hiện thống kê, kiểm kê đất đai theo quy định của pháp luật đất đai; do đó Sổ mục kê đất phải thể hiện toàn bộ các thửa đất (gồm cả thửa đất đã được cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất (dưới đây gọi là giấy chứng nhận) và thửa chưa được cấp giấy chứng nhận), các công trình thủy lợi và sông ngòi, kênh rạch suối trong phạm vi địa giới hành chính từng xã, phường, thị trấn. Những thửa đất đã được cấp giấy chứng nhận thì thông tin của thửa thể hiện trên Sổ mục kê đất thống nhất với thông tin trên giấy chứng nhận, những thửa đất chưa cấp giấy chứng nhận thì thông tin của thửa thể hiện theo kết quả điều tra, đo đạc hiện trạng đang sử dụng đất mà chưa có giá trị pháp lý về quyền sử dụng đất.

Vì vậy, sổ mục kê lập theo các văn bản trên không phải là giấy tờ làm căn cứ cấp giấy chứng nhận. Tuy nhiên, trên thực tế đây vẫn là một trong các giấy tờ căn cứ để xác định chủ sử dụng đất.

BÀI VIẾT LIÊN QUAN
- Advertisment -spot_img

Bài viết được quan tâm