Hiện nay tình trạng chung sống như vợ chồng, không có đăng ký hết hôn vẫn đang diễn ra trong thực tế. Nguyên nhân chủ yếu do tư tưởng không muốn bị ràng buộc, trách nhiệm khi kết hôn. Tuy nhiên do không có xác lập về mặt pháp luật nên việc giải quyết hậu quả về tài sản, con cái trong trường hợp này gặp rất nhiều khó khăn. Việc xác định tài sản hình thành trong thời gian này thuộc bên nào hay cả hai? Đặc biệt tài sản là nhà đất lại càng không hề đơn giản.
- Cơ sở pháp lý:
- Mục 1 Thông tư liên tịch 01/2001/TTLT-TANDTC-VKSNDTC-BTP;
- Nghị quyết 35/2000/NQ-QH10 về việc thi hành Luật hôn nhân và gia đình;
- Luật Hôn nhân và gia đình năm 2014.
2. Luật sư tư vấn:
2.1. Quy định về nam nữ sống chung như vợ chồng:
– Khoản 7 Điều 3 Luật hôn nhân và gia đình năm 2014 quy định:
“7. Chung sống như vợ chồng là việc nam, nữ tổ chức cuộc sống chung và coi nhau là vợ chồng.”
– Điểm d Mục 2 Thông tư liên tịch số 01/2001/TTLT-TANDTC-VKSNDTC-BTP hướng dẫn thi hành Nghị quyết số 35/2000/QH10 ngày 9/6/2000 về việc thi hành luật hôn nhân và gia đình:
“d. Được coi nam và nữ chung sống với nhau như vợ chồng, nếu họ có đủ điều kiện để kết hôn theo quy định của Luật hôn nhân và gia đình năm 2000 và thuộc một trong các trường hợp sau đây:
– Có tổ chức lễ cưới khi về chung sống với nhau;
– Việc họ về chung sống với nhau được gia đình (một bên hoặc cả hai bên) chấp nhận;
– Việc họ về chung sống với nhau được người khác hay tổ chức chứng kiến;
– Họ thực sự có chung sống với nhau, chăm sóc, giúp đỡ nhau, cùng nhau xây dựng gia đình.
Thời điểm nam và nữ bắt đầu chung sống với nhau như vợ chồng là ngày họ tổ chức lễ cưới hoặc ngày họ về chung sống với nhau được gia đình (một hoặc cả hai bên) chấp nhận hoặc ngày họ về chung sống với nhau được người khác hay tổ chức chứng kiến hoặc ngày họ thực sự bắt đầu chung sống với nhau, chăm sóc, giúp đỡ nhau, cùng nhau xây dựng gia đình.”
2.2. Xác định tài sản trong thời gian chung sống như vợ chồng.
Việc xác định tài sản hình thành trong thời gian chung sống như vợ chồng phụ thuộc phần lớn vào thời gian bắt đầu sống chung với nhau.
a. Chung sống như vợ chồng trước ngày 03/01/1987:
Trường hợp này vẫn được Pháp luật công nhận vợ chồng mặc dù không đăng ký kết hôn. Vì vậy nhà đất hình thành trong thời kì sống chung vẫn được công nhận là tài sản chung của cả 2 người. Trừ trường hợp chứng minh được nhà đất là tài sản được tặng cho, thừa kế riêng, hoặc thông qua giao dịch bằng tài sản riêng của một người.
b. Chung sống như vợ chồng từ ngày 03/01/1987 đến trước ngày 01/01/2001:
Trước ngày 01/01/2003, nếu có đủ điều kiện kết hôn theo quy định của Luật thì phải đăng ký kết hôn.
Trường hợp này, quan hệ vợ chồng của hai người được công nhận là đã xác lập kể từ ngày bắt đầu chung sống với nhau như vợ chồng, chứ không phải kể từ ngày đăng ký kết hôn. Vì vậy, tài sản hình thành trong thời gian chung sống với nhau được coi như là tài sản hình thành trong thời kì hôn nhân nên là tài sản chung của cả 2 người. Trừ trường hợp chứng minh được nhà đất là tài sản được tặng cho, thừa kế riêng, hoặc thông qua giao dịch bằng tài sản riêng của một người.
c. Chung sống như vợ chồng kể từ ngày 01 tháng 01 năm 2001
- Nam nữ chung sống với nhau như vợ chồng từ ngày 03/01/1987 đến trước ngày 01/01/2001 nhưng đến trước ngày 01/01/2003, dù có đủ điều kiện kết hôn theo quy định của Luật nhưng hai người không đăng ký kết hôn.
- Nam nữ sống chung như vợ chồng kể từ ngày 01 tháng 01 năm 2001.
Cả hai trường hợp này đều không được công nhận là vợ chồng, không làm phát sinh quyền, nghĩa vụ giữa vợ và chồng. Vì vậy tài sản hình thành trong thời gian sống chung sẽ được áp dụng theo quy định tại Điều 16 Luật Hôn nhân và gia đình năm 2014:
“1. Quan hệ tài sản, nghĩa vụ và hợp đồng của nam, nữ chung sống với nhau như vợ chồng mà không đăng ký kết hôn được giải quyết theo thỏa thuận giữa các bên; trong trường hợp không có thỏa thuận thì giải quyết theo quy định của Bộ luật dân sự và các quy định khác của pháp luật có liên quan.
2. Việc giải quyết quan hệ tài sản phải bảo đảm quyền, lợi ích hợp pháp của phụ nữ và con; công việc nội trợ và công việc khác có liên quan để duy trì đời sống chung được coi như lao động có thu nhập.”
Như vậy trong trường hợp này, không làm phát sinh quyền, nghĩa vụ giữa vợ và chồng. Theo đó, đối với tài sản riêng của mỗi người thì tài sản của ai sẽ do người đó sở hữu. Sổ đỏ đứng tên ai thì sẽ là tài sản riêng của người đó. Tuy nhiên, nếu bên kia có giấy tờ, tài liệu chứng minh được công sức đóng góp của họ đối với nhà đất này thì nó sẽ được coi là tài sản chung.
Tài sản chung sẽ được phân chia theo quy định tại Điều 219 Bộ luật dân sự 2015 như sau:
“1. Trường hợp sở hữu chung có thể phân chia thì mỗi chủ sở hữu chung đều có quyền yêu cầu chia tài sản chung; nếu tình trạng sở hữu chung phải được duy trì trong một thời hạn theo thỏa thuận của các chủ sở hữu chung hoặc theo quy định của luật thì mỗi chủ sở hữu chung chỉ có quyền yêu cầu chia tài sản chung khi hết thời hạn đó; khi tài sản chung không thể chia được bằng hiện vật thì chủ sở hữu chung có yêu cầu chia có quyền bán phần quyền sở hữu của mình, trừ trường hợp các chủ sở hữu chung có thỏa thuận khác.
2. Trường hợp có người yêu cầu một người trong số các chủ sở hữu chung thực hiện nghĩa vụ thanh toán và chủ sở hữu chung đó không có tài sản riêng hoặc tài sản riêng không đủ để thanh toán thì người yêu cầu có quyền yêu cầu chia tài sản chung và tham gia vào việc chia tài sản chung, trừ trường hợp pháp luật có quy định khác.
Nếu không thể chia phần quyền sở hữu bằng hiện vật hoặc việc chia này bị các chủ sở hữu chung còn lại phản đối thì người có quyền có quyền yêu cầu người có nghĩa vụ bán phần quyền sở hữu của mình để thực hiện nghĩa vụ thanh toán.”
Theo đó, việc phân chia tài sản chung sẽ ưu tiên sự thỏa thuận của các bên, nếu các bên không thỏa thuận được thì một trong các bên có thể yêu cầu tòa án giải quyết theo quy định pháp luật.